city_hall

Trang web chính thức sử dụng .boston.gov

A .boston.gov website belongs to an official government organization in the City of Boston.

lock

Secure .gov websites use HTTPS

Ổ khóa or https:// means you've safely connected to the .gov website. Share sensitive information only on official, secure websites.

Những cuộc hôn nhân kiểu Boston và lịch sử đồng tính luyến ái của phong trào nữ quyền.

của Anna Boyles

Vào ngày 4 tháng 10 năm 1920, Sarah Stites và Helen Hodge đã rời khỏi ngôi nhà của họ trên đường Queensberry ở Boston để cùng nhau đăng ký quyền bầu cử. Trong quá trình phiên âm các sổ đăng ký cử tri nữ năm 1920, các thành viên của nhóm nghiên cứu Mary Eliza Project đã phát hiện ra nhiều trường hợp phụ nữ sống cùng một địa chỉ ở Boston đăng ký bầu cử cùng nhau, giống như Sarah Stites và Helen Hodge đã làm.

Excerpt from Ward 8 of General Register of Women Voters, 1920, Boston City Archives
Excerpt from Ward 8 of General Register of Women Voters showing Sarah Stites and Helen Hodges registrations, 1920, Boston City Archives

Một số lượng lớn phụ nữ sống cùng nhau có quan hệ họ hàng, mẹ con, chị em ruột và chị em dâu. Trong một số trường hợp, những người phụ nữ sống cùng một địa chỉ đơn giản chỉ là hàng xóm trong cùng một tòa nhà, như trong trường hợp của những người phụ nữ làm công và sinh viên sống tại Franklin Square House ở South End . Tuy nhiên, bản chất của một số mối quan hệ được tiết lộ trong hồ sơ đăng ký cử tri lại không rõ ràng. Trong khi nghiên cứu cuốn sách gần đây của mình, Public Faces, Secret Lives: A Queer History of the Women's Suffrage Movement , Wendy L. Rouse đã lần đầu tiên phát hiện ra những dấu hiệu của "Boston Marriages" thông qua việc xác định những người ủng hộ quyền bầu cử phụ nữ Mỹ có chung địa chỉ.

Two women kissing with caption, "I don't like to see a woman do a man's work."
Postcard of two women kissing, implying anti-suffrage, Dovie Horvitz Collection, University of Wisconsin-Madison

Thuật ngữ "Hôn nhân kiểu Boston" (Boston Marriage) chỉ một mối quan hệ gia đình phi truyền thống giữa hai phụ nữ thuộc tầng lớp trung lưu hoặc thượng lưu. Những mối quan hệ bền chặt giữa phụ nữ này chủ yếu xuất hiện ở New England, nơi có số lượng lớn phụ nữ được giáo dục đại học đủ khả năng tự chủ về tài chính để lựa chọn có kết hôn truyền thống với đàn ông hay không. Theo Rouse, các nhà viết tiểu sử và học giả đã ghi nhận những mối quan hệ đồng tính luyến ái giữa các nhà nữ quyền như Frances Willard và Anna Adams Gordon, Carrie Chapman Catt và Mary Garrett Hay, Jane Addams và Mary Rozet Smith, Alice Stone Blackwell và Kitty Blackwell, cùng nhiều người khác. Thật không may, đời sống riêng tư đồng tính luyến ái của các nhà nữ quyền đã bị bỏ qua trong câu chuyện thường được kể về phong trào nữ quyền ở Hoa Kỳ.

Jilted for the vote? The anti-suffragists predicted the demise of marriage and motherhood if women were given the right to vote. Here, a man returns home to find his two daughters deserted by their mother who is out campaigning for suffrage.
"Home," Anti-Suffrage flier from the Massachusetts Association Opposed to the Further Extension of Suffrage to Women, circa 1900-1920, Tennessee State Library and Archives

Trong suốt cuộc đời mình, những người ủng hộ quyền bầu cử phụ nữ (suffragist) thách thức các chuẩn mực giới tính và tình dục đã bị loại khỏi phong trào chính thống đòi quyền bầu cử cho phụ nữ. Những người phản đối quyền bầu cử phụ nữ cáo buộc những người phụ nữ tiến bộ này là "quá nam tính" và lập luận rằng việc trao quyền bầu cử cho phụ nữ sẽ làm đảo lộn "thứ tự tự nhiên" và gia đình. Những người phản đối này đã miêu tả những người phụ nữ vận động cho quyền bầu cử như những người vợ hay người mẹ bỏ bê bổn phận gia đình. Họ đổ lỗi cho những người phụ nữ hoạt động công khai này về tỷ lệ gia tăng của tệ nạn vị thành niên, ly hôn và sự bất đạo đức tình dục. Các nhà lãnh đạo vận động quyền bầu cử đã đáp trả bằng cách ủng hộ hình ảnh truyền thống về nữ tính và loại bỏ những người hoạt động thách thức những chuẩn mực này. Rouse đã ghi lại cách các nhà lãnh đạo của Hiệp hội Quyền Bầu cử Phụ nữ Quốc gia Hoa Kỳ (NAWSA) đã tách mình ra khỏi nhà hoạt động vận động quyền bầu cử, Tiến sĩ Mary Walker, người đã cắt tóc ngắn và mặc trang phục nam tính truyền thống như quần và áo vest. Người gốc Boston, Margaret Foley, được mệnh danh là "người gây rối chính", cũng thấy mình bất hòa với lãnh đạo phong trào vận động quyền bầu cử. Foley làm việc tại một nhà máy mũ và từng là thủ quỹ của Công đoàn thợ làm mũ trước khi làm việc cho một số tổ chức vận động quyền bầu cử. Tính cách mạnh mẽ, chiến thuật công khai và sự ủng hộ kiên định đối với tầng lớp công nhân của bà đã gây ra căng thẳng với các tổ chức vận động quyền bầu cử cho phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu và trung lưu ở Massachusetts. Tuy nhiên, Foley đã đi khắp đất nước vận động cho quyền bầu cử phụ nữ, xây dựng mối quan hệ suốt đời với Helen Elizabeth Goodnow, một người ủng hộ quyền bầu cử phụ nữ giàu có ở Boston. Foley sống với Goodnow cho đến khi bà qua đời năm 1957.

    Một ví dụ về sự hợp tác như vậy trong sổ đăng ký cử tri nữ Boston năm 1920 là trường hợp của Sarah H. Stites và Helen H. Hodge. Hai người phụ nữ này đăng ký bầu cử cùng nhau vào ngày 4 tháng 10 năm 1920, và được thư ký ghi nhận là cùng cư trú tại số 11 đường Queensberry. Nhà của họ, nằm ở khu phố Fenway của Boston, chỉ cách trường Cao đẳng Simmons (nay là Đại học Simmons) một đoạn đi bộ ngắn, nơi Stites đã làm giáo sư kinh tế trong nhiều năm.

Sarah H. Sites circa 1936, Courtesy of Simmons University Archives
Sarah H. Sites circa 1936, Courtesy of Simmons University Archives

Stites được ghi nhận trong mục tin tức cựu sinh viên của Tạp chí Bryn Mawr năm 1914 với vai trò là giảng viên kinh tế được trả lương tại Đại học Simmons. Thêm vào đó, bà tự báo cáo rằng sở thích hiện tại của bà là làm vườn và bà ủng hộ quyền bình đẳng giới cho phụ nữ. Không rõ bà đã vận động như thế nào cho quyền bình đẳng giới, nhưng bà là thành viên của Văn phòng Lập pháp thuộc Đảng Tiến bộ Massachusetts và Ủy ban Lập pháp của Liên minh Bình đẳng Chính trị. Bà sống với Helen Hodge từ năm 1920 đến ít nhất là năm 1950. Họ cùng chuyển từ Boston đến Brookline và cuối cùng là Wayland, Massachusetts. Hodge đôi khi được ghi nhận trong Cục điều tra dân số Hoa Kỳ là người ở trọ trong gia đình Stites; những lần khác, người đi kiểm đếm dân số ghi nhận bà là bạn đời hoặc bạn bè của Stites. Stites nhận nuôi một con trai và cả ba người xuất hiện như một đơn vị hộ gia đình trong Cục điều tra dân số Hoa Kỳ năm 1930. Gia đình không theo truyền thống này đã thách thức các chuẩn mực giới tính của thời đó, nhưng Sarah H. Stites và Helen Hodge chắc chắn không phải là những nhà vận động quyền bình đẳng giới duy nhất thành lập nên những mối quan hệ và gia đình lý tưởng suốt đời của riêng họ.

Tìm hiểu thêm:

Wendy L. Rouse, Public Faces, Secret Lives: Một lịch sử đồng tính luyến ái về phong trào nữ quyền.

Sarah Deutsch, Phụ nữ và Thành phố: Giới tính, Không gian và Quyền lực ở Boston, 1870-1940

Cục Quản lý Công viên Quốc gia, Margaret Foley

Cục Quản lý Công viên Quốc gia, Đăng ký kết hôn tại Boston

Phong trào đòi quyền bầu cử cho phụ nữ tại Simmons

Dự án Mary Eliza

Anna Boyles là sinh viên theo học chương trình kép về Lịch sử và Quản lý Lưu trữ tại Đại học Simmons.

  • Last updated:
  • Last updated:
Quay lại đầu trang