city_hall

Trang web chính thức sử dụng .boston.gov

A .boston.gov website belongs to an official government organization in the City of Boston.

lock

Secure .gov websites use HTTPS

Ổ khóa or https:// means you've safely connected to the .gov website. Share sensitive information only on official, secure websites.

Những tiệm làm tóc của người da đen ở Boston: Văn hóa làm đẹp trong các danh sách cử tri nữ năm 1920

của Anna Boyles

Thống kê đăng ký cử tri nữ Boston năm 1920 cho thấy một số lượng lớn phụ nữ đã di cư từ các tiểu bang phía Nam đến định cư tại các khu vực như South End và Lower Roxbury. Quan sát kỹ hơn, một mô hình xuất hiện. Nhiều phụ nữ miền Nam này đã báo cáo với nhân viên đăng ký cử tri rằng họ làm nghề thợ làm tóc. Hơn nữa, hồ sơ điều tra dân số cho thấy những người thợ làm tóc gốc miền Nam này là người da đen hoặc người lai chủng. Điều gì đã dẫn đến sự tập trung của phụ nữ miền Nam da đen làm nghề thợ làm tóc sau khi di cư đến Boston?

Từ năm 1914 đến năm 1920, khoảng 30.000 đến 50.000 người da đen miền Nam đã di cư từ các tiểu bang phía nam, nhiều người trong số đó bị thu hút bởi các công việc công nghiệp có sẵn ở các thành phố phía bắc như Boston. Sự chuyển dịch lịch sử này trong dân số người da đen ở Hoa Kỳ được gọi là Đại di cư. Trong khi một số người chạy khỏi miền Nam do khủng bố chủng tộc và các chính sách Jim Crow, nhiều người khác bị thu hút bởi các công việc công nghiệp được cung cấp ở các thành phố phía bắc. Nam giới da đen có thể tìm được những công việc như vậy ở phía bắc, nhưng phụ nữ da đen vẫn bị hạn chế chủ yếu vào việc làm trong dịch vụ nội trợ. Thật không may, người lao động nội trợ phải đối mặt với giờ làm việc dài, tiền lương thấp, ít quyền kiểm soát công việc hàng ngày và không có cơ hội thăng tiến. Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi phụ nữ da đen tìm kiếm việc làm ở nơi khác. Theo nhà xã hội học Robert L. Boyd, phụ nữ da đen đã thành công trong các nghề làm tóc và chăm sóc sắc đẹp trong thời kỳ Đại di cư vì một số lý do.

Beauty Culture Class, circa 930, Manual Training and Industrial School for Colored Youth at Bordentown, NJ
Beauty Culture Class, circa 1920-1930, Manual Training and Industrial School at Bordentown, NJ

Thứ nhất, ngành làm đẹp là một lĩnh vực tương đối dễ tiếp cận; các khóa đào tạo có sẵn ở một số trường công lập cũng như các trường dạy nghề thẩm mỹ địa phương. Thêm vào đó, phụ nữ có thể kinh doanh tiệm làm đẹp tại nhà. Công việc trong ngành làm đẹp mang lại sự linh hoạt hơn, có nghĩa là phụ nữ có thể cân bằng giữa trách nhiệm gia đình và công việc kiếm tiền. Phụ nữ da đen đặc biệt am hiểu về những yêu cầu riêng biệt trong việc chăm sóc tóc dành cho người da đen. Điều này cho phép họ cạnh tranh thành công với những người không được đào tạo về cắt, tạo kiểu và chăm sóc tóc dành cho người da đen. Công việc trong ngành làm đẹp có tiềm năng phát triển. Người ta có thể mở rộng từ cửa hàng tại nhà thành tiệm làm đẹp, rồi có thể một ngày nào đó thành trường dạy nghề thẩm mỹ hoặc doanh nghiệp sản xuất mỹ phẩm. Điều này có nghĩa là một số phụ nữ trong ngành công nghiệp làm đẹp có thể thăng tiến về mặt kinh tế và xã hội. Một số người có thể đã được truyền cảm hứng để bước vào ngành làm đẹp sau khi thấy thành công của Madam CJ Walker, nữ doanh nhân da đen và là người sáng lập Công ty Sản xuất Madam CJ Walker. Sinh ra ở Louisiana với cha mẹ từng là nô lệ, Walker chuyển đến St. Louis và phát triển các sản phẩm chăm sóc tóc và trường dạy nghề thẩm mỹ dành cho phụ nữ da đen. Bà thường được coi là nữ triệu phú tự lập đầu tiên người da đen.

St. Louis Palladium, 1904
St. Louis Palladium, 1904

Một cử tri mới của Boston đã tận dụng cơ hội trong ngành làm tóc là Mary L. Johnson. Sinh ra ở Virginia vào khoảng năm 1880, bà Johnson kết hôn với một người đàn ông cũng sinh ra ở miền Nam, Tiến sĩ W. Alexander Johnson, năm 1896 tại Boston. Cùng nhau, họ bắt đầu bán sản phẩm Johnson's Hair Food vào năm 1900, có thể mua từ các đại lý hoặc đặt hàng qua thư. Bà quảng cáo sản phẩm của mình trên khắp cả nước, bao gồm Alabama, Virginia, Missouri và Colorado. Ngoài ra, cư dân và khách du lịch Boston có thể mua các sản phẩm chăm sóc tóc và da đầu này tại cửa hàng Johnson's Hair Store trên đường Shawmut Avenue. Bà Johnson sau đó mở một trường dạy làm đẹp, với hai địa điểm được liệt kê trong Sổ đăng ký và Danh bạ Doanh nghiệp Boston năm 1920: 800 Tremont Street và 561 Shawmut Avenue.

Official Souvenir Program, National Negro Business League, Boston, 1915
Official Souvenir Program, National Negro Business League, Boston, 1915

Vì vậy, không rõ tại sao các thư ký thành phố Boston lại ghi nghề nghiệp của Mary L. Johnson là "nội trợ" khi bà đăng ký quyền bầu cử vào năm 1920.

Excerpt from Ward 13 of General Register of Women Voters showing entry for Mary L. Johnson, 1920, Boston City Archives
Excerpt from Ward 13 of General Register of Women Voters showing entry for Mary L. Johnson, 1920, Boston City Archives

Dữ liệu được ghi trong sổ đăng ký chịu ảnh hưởng bởi những gì từng nhân viên đăng ký cử tri hỏi phụ nữ và cách họ chọn ghi lại câu trả lời của họ. Chúng tôi nhận thấy các nhân viên thường chọn ghi nghề nghiệp của phụ nữ là nội trợ khi trên thực tế họ đang làm việc, như trong trường hợp của Mary L. Johnson. Trong một số trường hợp, chúng tôi thậm chí còn thấy các nhân viên dường như bị những người phụ nữ đi đăng ký bầu cử sửa chữa. Trong một số mục, "nội trợ" đã được ghi là nghề nghiệp trước khi bị gạch bỏ và một công việc khác được viết bên cạnh. Bạn có thể khám phá thêm về những người phụ nữ lao động và phụ nữ miền Nam trong các bản ghi chép được phiên âm của các khu vực 1, 6, 8 và 13.

Đọc thêm:

Anna Boyles là sinh viên theo học chương trình kép về Lịch sử và Quản lý Lưu trữ tại Đại học Simmons.

  • Last updated:
  • Last updated:
Quay lại đầu trang